Người ta nói "nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống". Vì vậy kỹ thuật chăm sóc là quan trọng nhất, khi nào cần tưới nươc, khi nào cấn bó phân... để cây sinh trưởng tốt theo đúng quy trình như sau:
Phần 1: KỸ THUẬT CHĂM SÓC HOA BỒN
I.
BỒN (CHẬU) TRỒNG HOA
Mầm nhỏ
trồng chậu nhỏ, mầm to trồng chậu to. Căn cứ chất đất có thể chia ra chậu đất,
chậu sành, chậu gốm, chậu cát tím, chậu nhựa… Những năm gần đây còn có loại
chậu hỗn hợp đất xi măng, chậu gỗ, chậu kim loại đồng sát làm chậu lớn.
II.
CHỌN CHẤT ĐẤT
Nói
chung áp dụng chất dinh dưỡng nhiều thành phần làm thành đất trồng hoa, vì đất
dinh dưỡng đơn nhất không thể thỏa mãn nhu cầu cho hoa sinh trưởng.
1. Phân nhóm thường dùng pha chế đất
1.1. Đất cát
Không chứa chất hữu cơ,
độ chua mặn là trung tính, thích hợp với trồng chăm sóc, gieo giống chăm sóc và
trực tiếp trồng cây xương rồng cảnh hoặc thực vật nhiều nhựa. Nói chung đất sét
có thể cho thêm cát sông để cải thiện kết cấu của đất. Dùng cát biển làm đất
trồng cây, cần phải dùng nước ngọt rửa kỹ mới có thể dùng.
1.2. Đất vườn
Chất đất tương đối phì
nhiêu, thiên tính acid hoặc thiên tính kiềm. Sau khi khô dễ cằn cỗi, tính thấu
nước kém, khó sử dụng đơn độc.
1.3. Đất hoai
Tính acid yếu, hàm lượng
dưỡng phần cao, đất tơi xốp, tính thấu khí và tính thấu nước tốt, là đất tốt
trồng cây chậu truyền thống.
1.4. Đất lá thông
Chất đất phì nhiêu, tính
thấu khí và tính thoát nước tốt, có tính acid mạnh, thích hợp loại cây hoa cảnh
thích tính acid mạnh.
1.5. Đất tro cỏ (đát tro bùn)
Mềm tôi xốp, tính thoát
nước và tính thấu khí tốt, có tính acid yếu, là đất trồng cây tốt.
1.6. Bùn ao
Sau khi phơi khô đập nhỏ
sử dụng, hoặc hỗn hợp với cát thô hoặc đất tơi xốp nhẹ khác sử dụng
1.7. Đất thảo bì (vầng cỏ)
Dưỡng phần đầy đủ, có
tính acid yếu
1.8. Đất ao đầm
Chất hoai mục phong phú,
chất phì nhiêu nhiều, lâu dài, có tính acid sau khi phơi khô dễ cằn cỗi, nứt
nẻ, nên trộn với cát khô sử dụng.
1.9. Vỏ dừa
Tính giữ nước và thấu khí
tốt, có lợi cho cây thu hút dinh dưỡng phần nước và sử dụng tiện lợi, sạch, dễ
vận chuyển nhưng chất đất nhẹ nên trộn với đất thô sử dụng.
1.10. Tro vỏ lúa (tro nấu)
Trung tính, hoặc acid
yếu, có chất dinh dưỡng cali tương đối cao, cho vào đất có thể làm cho đất tơi
xốp, thấu khí.
2. Nguyên tắc phối chế đất
Nguyên tắc phối chế đất
là đòi hỏi phải có tình trạng vật lý, hóa học tốt, có tính thấu khí nhất định
và đất tơi xốp, có khả năng giữ nước và thoát nước tương đối mạnh.
Hoa cảnh sinh một năm và sinh 2 năm sống trên đất cát thoát nước tốt đều
có thể sinh trưởng tốt, giống hoa mùa thu trồng trên đất sét là thích hợp. Hoa
cảnh rễ cũ (rễ năm trước) nếu có lớp đất 40 – 50cm, lớp dưới nên lót chất thoát
nước, để thoát nước tốt. Hoa cảnh rễ cũ ở thời kỳ mầm non đòi hỏi chất đất nhẹ
giàu chất hoai xốp, còn sau năm thứ 2 thì đất sét hơi dính là vừa. Hoa cảnh rễ
hình cầu dùng chất đất nhẹ thoát nước tốt giàu chất hoai xốp là thích hợp. Hoa
cảnh trong phòng ấm khi trồng đòi hỏi đất giàu chất hoai mục tơi xốp, mềm có
tính thấu khí và tính thoát nước tốt và có thể duy trì trạng thái ẩm nhuận của
đất lâu dài, khó khô.
3. Tiêu độc cho đất
Tiêu độc hóa học: dùng
foormaline 40% phun đểu lên đất, mỗi m2 dùng 500ml, sau đó dùng màng nilong đậy
kín, để kín 1 – 2 ngày sau khi gỡ bỏ màng nilong, cuốc đất lật phơi đất 7 – 10
ngày là có thể sử dụng; hoặc dùng foormaline loãng 50 lần xả đều lên mặt đất
phơi, mỗi m2 dùng 2,5kg, sau đó dùng màng nilong đậy kín 3 -6 ngày, sau khi mở
màng nilong ra, lại phơi nắng 10-15 ngày mới có thể sử dụng.
Tiêu độc vật lý: Phơi
nắng đất, gia nhiệt tiêu độc, chưng hơi tiêu độc.
4. Vào chậu (bồn), thay chậu, chuyển chậu, và đảo chậu
4.1. Vào chậu
Thao tác trồng mầm cây
hoặc cây non vào chậu gọi là vào chậu. Trước hết cho mấy cục gạch vỡ hoặc than
cục vào đáy chậu, sau đó cho một ít đất vào, đặt chậu ngay ngắn lên đất, vun
đất vào gốc cây, vừa vun đất vừa nén đất xung quanh cho cây đứng vững, đất cách
vành chậu khoảng 3cm, sau khi nén chặt tưới nước vào gốc.
4.2. Đổi chậu
Đổi chậu là nhổ cây trồng
của chậu này trồng sang chậu khác. Trước khi đổi chậu 1 – 2 ngày ngừng tưới
nước, sau khi nhổ cay từ chậu cũ ra, bóc bỏ đất cũ, cắt bỏ rễ râu và rễ thối
hỏng, cho vào chậu mới hoặc chậu cũ, đồng thời cho thêm đất mới vào. Sau khi đổi
chậu cần tưới đủ nước, để cho rễ và đất tiếp xúc bám chặt vào nhau, sau đó để
vào chỗ râm mát dưỡng mầm 2 – 3 ngày, sau đó chuyển đến chỗ sinh trưởng thích
hợp. Cây hoa sinh một năm hoặc sinh 2 năm trước khi nở hoa phải đổi chậu 2 – 4
lần. Cây hoa năm trước một năm đổi chậu 1 lần, cây hoa thân gỗ 2 năm hoặc 3 năm
đổi chậu 1 lần.
4.3. Chuyển chậu
Cây trồng dễ phát sinh
cong uốn về hướng ánh sáng và sinh trưởng về hướng ánh sáng. Đề phòng sinh
trưởng lệch theo ánh sáng phá hoại thế cây tròn trịa, mỗi mấy ngày phải chuyển
đổi hướng chậu hoa.
4.4 Đảo chậu
Đảo chậu là nói đảo chậu
hoa từ phòng ấm đến một nơi khác vị trí chậu hoa không giống nhau, yếu tố ảnh
hưởng môi trường từ chiếu sáng, thông gió, nhiệt độ khác nhau, thì sinh trưởng
của bồn hoa khác nhau, để làm cho nó sinh trưởng đều và thống nhất, qua một
thời gian, phải tiến hành một lần đảo chậu.
5. Quản lý chăm bón
5.1. Tưới nước
Thời gian tưới:
Mùa xuân buổi sáng trên
dưới 10 giờ, mùa hè buổi sáng 7 – 8 giờ hoặc buổi tối 5 – 6 giờ, khi nhiệt độ
cao không thể tưới nước; đầu thu có thể tham khảo mùa hè. Trung thu thời gian
tưới sáng tối đều được, thu sau nên tưới vào buổi trưa; mùa đông nên tưới nước
vào buổi trưa hoặc buổi chiều lúc trời trong.
Phương thức tưới nước hoa
bồn có tưới ướt, tưới phun và ngâm bồn.
Thời kỳ mầm non lượng
nước tương đối ít nên tưới lượng nước ít nhiều lần. Thời kỳ dinh dưỡng sinh
trưởng của mầm và phát triển lá, cành, tưới nước cần tưới thấu. Thời kỳ phân
hóa mầm phải khống chế nước thích đáng. Thời kỳ ra nụ hoa phải tưới nhiều nước.
Thời kỳ nở hoa tưới ít nước. Thời kỳ ngủ tưới ít nước. Mùa hè sinh trưởng phải
có ít nước thấm từ đáy chậu ra là vừa. Mùa đông nhiệt độ thấp tưới ít nước, giữ
cho đất hơi ẩm là được.
5.2. Bón phân
Thời gian bón phân vào
chập choạng tối lúc trời trong. Bón phân bồn hoa trong một năm có thể chia ra 3
giai đoạn:
- Bón lót nên sau mùa
xuân kết hợp thay đất lật chậu bón 1 lần.
- Mùa sinh trưởng thịnh
vượng và thời gian kỳ mầm hoa phân hóa đến giai đoạn ủ nụ bón phân.
- Sau khi đưa vào phòng ấm
xem tình hình để bón phân.
Phân lót chủ yếu là phân
hữu cơ hoại đủ, phối hợp với phân lót bón phân người đều, lượng dùng không được
vượt quá 20% tổng lượng đất bồn. Bón thúc thông thường chủ yếu dùng phân khô
dầu, bã dầu đã phối trộn, cũng có thể dùng phân vô cơ hoặc nguyên tố vi lượng
bón thúc hoặc bón phun lá. Khi bón phun phải chú ý nồng độ nước phân.
Bón phân thời kỳ sinh đẻ
của cây: Trước khi mầm lá ra, có thể bón thúc nước phân khô dầu pha loãng; khi
nảy mầm bón nhiều phân đạm; thời kỳ sinh trưởng thịnh vượng, có thể bón phân
khô dầu pha loãng; thời kỳ hoa mầm phân hóa đều thời kỳ ra nụ hóa thúc phân
hoại mục pha loãng, và kết hợp bón thúc mặt lá, sau khi thành nụ giảm bớt phân
đạm, tăng bón phân lân, nên dùng phân nước; khi thời kỳ hoa không bón, sau khi
hoa nở bón đầy đủ phân lân. Sau khi bón phân sang ngày thứ 2, phải tưới lại
nước gọi là “nước quay đầu”, phòng phân hại.
5.3. Cắt tỉa chỉnh hình
Hoa cỏ chia làm hai loại
hoa cỏ: hoa cỏ và hoa cỏ thân gỗ, phương pháp cắt tỉa chỉnh hình hai loại hoa
cỏ có khác nhau.
* Hình thức chỉnh hình
hoa cỏ thân cỏ.
Kiểu thân đơn, kiểu nhiều
thân, kiểu sinh chùm, kiểu treo, kiểu giá, kiểu cột dây leo. Hình thức cắt tỉa
chủ yếu là ngắt tâm, cắt mầm, cưa cành, tỉa nụ, ngắt hoa, cắt hoa tàn, trẩy lá.
* Hình thức chỉnh hình
hoa cỏ thân gỗ
Ngoài hình thức treo
đứng, giá và kiểu cột dây leo ra, còn có kiểu trồng nhóm, kiều chia trục ba
lớp, kiểu bảo tháp, kiểu nhiều lớp đơn thân, kiểu bện dây, kiểu tạo hình, kiểu
bàn cong và kiểu cuộn lá. Chủ yếu thông qua hái tâm, ngắt mầm, sửa cành, hái
lá, tỉa quả, hái bỏ hoa tàn để chỉnh sửa.
5.4. Phòng trị bệnh sâu hại
Bệnh hại thường thấy có
bệnh mềm nhũn có tính vi khuẩn, bệnh phấn trắng, bệnh thối rễ. Bệnh mềm nhuẫn
có vi khuẩn có thể dùng Streptonycin 72% dùng trong công nghiệp pha loãng 4.000
lần phun phòng trị, cách 7 – 10 ngày phòng trị một lần; bệnh thối rễ có thể
dùng Methyltopsin 70% pha loãng 4.000 lần tưới rễ phòng trị, cách 7 – 10 ngày
phòng trị 1 lần.
Sâu hại chủ yếu là sâu
bông, có thể dùng niêm trùng bản mày vàng dụ giết, thời kỳ phát sinh thịnh có
thể dùng Pyrrolin 25% pha loãng 1000 lần phun phòng trị, chú ý nông dược phải
sử dụng chéo nhau.
B) KỸ THUẬT CHĂM
SÓC MẦM LỚN XANH LÁ
I. THỜI GIAN DI TRỒNG
Thời gian di trồng tốt
nhất chọn sau thời kỳ ngủ của cây và trước dịch cây đâm chồi, hạ tuần tháng 2
đến đầu tháng 3 là thời kỳ tốt nhất, thời gian di trồng giống cây rụng lá thích
hợp nhất là sau rụng lá đến trước đầu chồi nảy mầm.
1. Di trồng mùa xuân
Thời gian di trồng căn cứ
vào giống cây nảy mầm sớm muộn để sắp xếp: Loại cây nảy mầm sớm di dời trước,
loại muộn di dời sau; loại rụng lá di dời trước, loại xanh lá di dời sau; cây
thân gỗ di dời trước, cây thân cỏ, rễ co cụm di dời sau, mầm lớn di dời trước,
mầm nhỏ di dời sau.
2. Di trồng mùa hạ
Mầm lá cây thường xuyên
xanh hoặc rụng lá có thể di trồng vào đầu mùa mưa. Khi trồng phải đào gốc có
đất bó to và bao gói tốt, bảo vệ tốt bộ rễ, phần cây mềm trên đất có thể cắt
tỉa thích đáng, sau khi di trồng phải phun nước bảo đảm tán cây ẩm nhuận, còn
phải che mát phòng nắng, sau một thời gian ngắn, mầm cây sẽ sống tốt.
3. Di trồng mùa thu
Mùa thu miền nam (Trung
Quốc) nói chung vẫn còn một kỳ sinh trưởng, di trồng mùa thu phải ngưng sinh
trưởng phần trên đất của mầm cây, mầm cây rụng lá hình thành lá bệnh sau khi
lớp lá rụng là có thể di trồng, vì lúc này bộ rễ chưa ngừng sinh trưởng, sau
khi di trồng có lợi cho phục hồi vết thương bộ rễ, sau khi di trồng tỷ lệ sống
cao.
4. Di trồng mùa đông
Do Quảng tây thời gian
lạnh mùa đông ngắn, mầm cây đã vào thời kỳ ngủ, do đó, nói một cách tương đối,
mùa đông là thời kỳ tốt nhất của di trồng. Sau khi cây tự rụng lá đến đầu năm
sau trước khi ra lá là di trồng, cây lá kim nên di trồng sớm hơn cây rụng lá,
cây lá xanh thường xuyên phải di trồng vào đầu mùa mưa phùn.
II. DỤNG CỤ DI TRỒNG
Dụng cụ di trồng có thể
chia làm hai loại: Dụng cụ không cần thu hồi, dụng cụ cần thu hồi.
1. Dụng cụ không cần thu
hồi
Đó là các dụng cụ giấy
dạng tổ ong, dụng cụ đất nung (gạch dinh dưỡng, cốc dinh dưỡng, dụng cụ than
bùn, cốc tương bùn, rơm rạ, dụng cụ vải không sợi).
2. Dụng cụ cần thu hồi
Nói chung là các dụng cụ
nhựa như túi mỏng nilong, ly nhựa cứng, loại dụng cụ này sau khi cùng cây mầm
trồng xuống đất không thể phân hủy, cần phải thu hồi trước khi trồng.
III. PHƯƠNG PHÁP DI TRỒNG
1. Phương pháp trồng lỗ
Thích hợp với di trồng
mầm lớn, sau khi chọn đất thích hợp với mầm sinh trưởng, theo mầm to nhỏ, cự ly
hàng cây để kéo dậy đỉnh điểm, sau khi xác định vị trí sẽ đào lỗ, đường kính và
độ sâu lỗ phải lớn hơn bộ rễ của mầm cây. Độ sâu cây trồng phải sâu hơn cây
trồng nguyên gốc 2 – 5cm, sau khi trồng xong lấp đất nén chặt và tưới đủ nước
phần gốc, mầm cây to phải bố trí cây cọc chống đỡ cố định, phòng cây bị gió
quật đổ.
2. Phương pháp trồng rãnh
Thích hợp với di trồng
mầm cây nhỏ, kết hợp với cự ly hàng cây mầm tiến hành đào rãnh, đát đưa lên hai
bên rãnh, để tiện định thổ (lắp đất) và định điểm mầm, theo thứ tự cự ly nhất
định đặt mầm vào trong rãnh, sau đó tiến hành lấp đất. Chú ý làm cho đất lấp
đầy phần bộ rễ của mầm và nện chặt đất lấp, sau đó tưới nước gốc cây theo chiều
thuận kim đồng hồ.
3. Phương pháp lỗ cây
Trước hết theo cự ly hàng
cây kẻ hàng, điểm lỗ, sau đó dùng máy đánh lỗ trên từng điểm, độ sâu giống với
lỗ cây, hoặc hơi sâu, cho mầm vào lỗ, lấp đất, tưới đủ nước ở rễ, phương pháp
này phải có máy đào lỗ chuyên dụng.
IV. QUẢN LÝ SAU DI TRỒNG
1. Tưới nước
Nguyên tắc tưới nước là
“không khô, không ướt, tưới đủ”. Mùa hè phải chú ý phun nước cho toàn bộ cành
lá, mùa mưa phải chú ý kịp thời thoát nước đọng lại.
2. Bón phân
Bón phân có thể kết hợp
với cày bừa, trước khi trồng phải bón đủ phân lót bằng phân hữu cơ là chính,
lượng phân bón là 10 – 12kg/m2, mùa sinh trưởng chủ yếu là bón phân thúc, lượng
bón phân hàng năm là 0,06 – 0,12kg/m2 là vừa, khi cây lớn vừa mới nảy mầm và
chồi mới ra trên dưới 10cm, khi chồi mọc mùa thu mỗi kỳ bón thúc một lần, chủ
yếu là phân đạm, có thể kết hợp tưới nước, mỗi cây mỗi lần bón phân 100 –
150g, phân hòa với nước tan tưới, hoặc
dùng nước tiểu 1 – 2% hoặc dùng dipotasium hydrogen photphate để bón thúc ngoài
rễ, thúc đẩy mầm mới sinh trưởng, đến mùa thu sau khi ngừng sinh trưởng, bón
thúc một lần chủ yếu là phân lân, kali, thúc đẩy cành mới chất gỗ hóa nhanh.
3. Cày xới làm cỏ
Cày xới là đất sâu 10 –
20cm, kết hợp trừ cỏ, khi đất tơi trừ cỏ, rễ cây cần lỏng tưới ít nước, ngoại
vi rễ cây có thể sâu hơn, cây nhỏ cạn hơn, cây to sâu hơn; đất cát cạn hơn, đất
sét sâu hơn, mùa hè cạn hơn, mùa đông sâu hơn. Mùa sinh trưởng trên dưới 15 ngày làm tơi
đất, trừ cỏ một lần, khi mùa hè sinh trưởng tương đối thịnh tiến hành trừ cỏ,
nói chung năm thứ nhất trừ cỏ 5 – 6 lần, năm thứ 2 là 4 lần, năm thứ 3 là 3
lần, bắt đầu từ năm thứ 4 mỗi năm 1 – 2 lần.
4. Phòng trị bệnh sâu hại
Phòng trị bệnh sâu hại
chủ yếu là dự phòng, tổng hợp phòng trị, nguyên tắc là “trị sớm, trị nhỏ, trị
khỏi”. Bệnh hại chủ yếu có bệnh nhiệt than, bệnh khô lá, bệnh nám đen, sâu hại
chủ yếu có sâu bông, ốc bươu và một số sâu hại có tính đục lỗ như thiên ngưu
(bọ con xén tóc). Bệnh hại có tính xâm nhiễm, cần phải phun thuốc Pordeaus
mixture trước khi phát bệnh để dự phòng, sau khi phát bệnh phun dipteres, zineb
và các thuốc diệt khuẩn khác trị liệu. Sâu hại ăn lá có thể phun dipteres để
diệt, sâu hại ăn rễ có thể dùng Poison bait dụ diệt, hoặc dùng hạt furane cho
vào lớp dưới đất để phòng trị.
Tóm lại để cây phát triển tốt có sức khỏe người chơi cây cảnh cũng như người trồng cây ăn trái phải có kỹ thuật chăm sóc khoa học chu đáo thì mới được kết quả như ý muốn.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét